Tiêu chuẩn này quy định ba mức về độ chính xác của phép đo: khảo sát, kỹ thuật, và độ chụm. Sự khác nhau cơ bản liên quan đến số lượng các vị trí đo và vì thế cũng liên quan đến thời gian cần để thực hiện các phép đo. Phụ lục A bao gồm một số thông tin bổ sung về độ không đảm bảo đo của thời gian âm vang. Việc giới thiệu tùy chọn phép đo khảo sát là nhằm thúc đẩy phép đo thời gian âm vang trong phòng được tiến hành thường xuyên hơn, nếu thuận tiện. Điều này cho thấy phép đo dù đơn giản vẫn tốt hơn là không đo.
Có một số lý do cần đo thời gian âm vang. Thứ nhất, mức áp suất âm thanh từ các nguồn ồn, độ rõ của tiếng nói, và sự cảm nhận riêng tư trong một phòng là phụ thuộc rất nhiều vào thời gian âm vang. Các phòng có thể bao gồm các phòng trong gia đình, cầu thang, các phòng hội thảo, các nhà máy công nghiệp, các phòng học, công sở, nhà hàng, các trung tâm triển lãm, các phòng thể thao, và các nhà ga tầu hỏa và sân bay. Thứ hai, thời gian âm vang được đo để xác định số hạng hiệu chính đối với sự hấp thụ của phòng vốn có trong nhiều phép đo âm, ví dụ các phép đo cách âm theo ISO 140 (tất cả các phần) và các phép đo công suất âm theo ISO 3740.
Ở một số quốc gia, các quy chuẩn xây dựng quy định các thời gian âm vang yêu cầu trong các lớp học và các loại phòng khác. Tuy nhiên, trong đại đa số các phòng, điều này được dành cho đội ngũ thiết kế quy định và thiết kế thời gian âm vang phù hợp với mục đích sử dụng phòng đó. Tiêu chuẩn này cũng góp phần vào sự hiểu biết và chấp nhận chung về thời gian âm vang đối với chất lượng và tính khả dụng của một phòng.
Trong tiêu chuẩn này có hai dải khác nhau được đánh giá đó là 20 dB và 30 dB. Tuy nhiên, dải 20 dB được ưa dùng vì một số các lý do sau:
a) Sự đánh giá mang tính chủ quan về thời gian âm vang có liên quan đến phần sớm của sự suy giảm;
b) Để ước lượng mức âm thanh ở trạng thái ổn định trong phòng từ thời gian âm vang của nó, điều này phù hợp với việc sử dụng phần sớm của sự suy giảm;
c) Tỷ số giữa tín hiệu và tiếng ồn luôn luôn là vấn đề trong các phép đo trường, và luôn gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được với dải đánh giá lớn hơn 20 dB. Điều này đòi hỏi mức tỉ số giữa tín hiệu và tiếng ồn ít nhất bằng 35 dB.
Phương pháp đo truyền thống được dựa trên kỹ thuật kiểm tra trực quan từng đường suy giảm. Cùng với thiết bị đo hiện đại, các đường suy giảm thông thường không hiển thị và điều này có thể dẫn đến rủi ro là các đường bất thường lại được sử dụng để xác định thời gian âm vang. Vì lý do này, Phụ lục B đưa ra hai số đo mới cho phép xác định định tính mức độ phi-tuyến tính và độ cong của đường suy giảm. Có thể sử dụng các số đo này để đưa ra các cảnh báo khi đường suy giảm là phi tuyến tính, và vì thế các kết quả phải được đánh dấu là kém tin cậy và không có duy nhất một thời gian âm vang.
Việc sử dụng các micro quay trong quá trình đo các đường suy giảm đã được nhóm công tác nghiên cứu xem xét, và quy trình này được cho là không có ý nghĩa rõ ràng về mặt vật lý và vì vậy chỉ được chấp nhận đối với phương pháp tiếng ồn ngắt quãng và chỉ khi kết quả được sử dụng đối với số hạng hiệu chính.
Đối với các phép đo thời gian âm vang khác, TCVN 10615-1 (ISO 3382-1) bao gồm các thính phòng và các không gian trình diễn, và ISO 354 các phép đo hệ số hấp thụ trong phòng âm vang. Cả TCVN 10615-1 (ISO 3382-1) và ISO 354 đều không phù hợp cho các phép đo trong phòng giống như các phòng đã nêu trên. Vì vậy, tiêu chuẩn này sẽ giải quyết vấn đề còn tồn tại giữa các tiêu chuẩn đo về các đặc tính âm thanh của các tòa nhà.
Tiêu chuẩn này sẽ không nhắc lại các vấn đề kỹ thuật của TCVN 10615-1 (ISO 3382-1), mà chỉ đề cập đến phép đo thời gian âm vang của các loại phòng khác.
[pdf id=’4804′]